Nguyễn Thị Bình là một trong những nữ lãnh đạo xuất sắc và kiên cường của Việt Nam, người đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử ngoại giao nước nhà, đặc biệt là trong quá trình đàm phán Hiệp định Paris năm 1973. Bà không chỉ là nhân chứng sống cho cuộc chiến đấu giành lại hòa bình cho đất nước, mà còn là biểu tượng của sự thông minh, tài năng và nghị lực phi thường của người phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đầy thử thách.

Hình ảnh bà Nguyễn Thị Bình thông minh, sắc sảo mà hòa nhã khi tiếp xúc với truyền thông quốc tế trong quá trình đàm phán Hiệp định Paris.
Tiểu sử và sự nghiệp
Nguyễn Thị Bình tên khai sinh là Nguyễn Thị Châu Sa, sinh ngày 26 tháng 5 năm 1927, quê quán tại Gò Nổi (xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam). Bà là cháu ngoại của cụ Phan Châu Trinh, một nhà yêu nước, nhân vật lịch sử nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Trước khi trở thành Phó Chủ tịch Nước, bà đã có một sự nghiệp ngoại giao vô cùng ấn tượng, góp phần quan trọng trong việc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và tạo dựng nền hòa bình cho đất nước. Một trong những dấu mốc quan trọng nhất trong cuộc đời bà là việc ký kết Hiệp định Paris vào năm 1973, đánh dấu sự kết thúc của cuộc chiến tranh kéo dài và đầy gian khổ tại Việt Nam.

Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam Nguyễn Thị Bình vẫy tay chào những người ủng hộ cách mạng Việt Nam tại Quảng trường Trafalgar của London (Anh), ngày 7 tháng 4 năm 1969.
Năm năm đàm phán đầy cam go
Vào cuối năm 1968, trong bối cảnh chiến tranh Việt Nam đang diễn ra vô cùng khốc liệt, bà Nguyễn Thị Bình được cử làm trưởng đoàn của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tham gia vào các cuộc đàm phán Hiệp định Paris. Ngày 4 tháng 11 năm 1968, khi vừa đặt chân đến Paris, bà đã gây ấn tượng mạnh mẽ khi phát biểu về giải pháp năm điểm của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Trong bài phát biểu, bà nhấn mạnh rằng: “Một là, mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam phấn đấu thực hiện độc lập, dân chủ, hòa bình và thống nhất đất nước. Hai là, Mỹ phải chấm dứt chiến tranh và rút quân khỏi Việt Nam. Ba là, công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam phải do nhân dân miền Nam tự giải quyết. Bốn là, việc thống nhất Việt Nam là quyền của nhân dân Việt Nam. Năm là, Việt Nam thực hiện chính sách ngoại giao hòa bình và trung lập.”
Bài phát biểu mạnh mẽ và thẳng thắn của bà đã gây tiếng vang lớn trong cộng đồng quốc tế. Ngay lập tức, bà Nguyễn Thị Bình được dư luận quốc tế gọi là “Madam Bình” và bà trở thành một biểu tượng mới trong phong trào chống chiến tranh và đấu tranh cho hòa bình. Những câu trả lời sắc bén của bà đối với các phóng viên quốc tế cũng tạo nên những dấu ấn không thể quên. Một trong những câu hỏi nổi tiếng là khi một nhà báo phương Tây hỏi bà có phải là đảng viên Đảng Cộng sản hay không, bà đã trả lời một cách khéo léo và thông minh: “Tôi thuộc Đảng yêu nước.” Câu trả lời này không chỉ khiến nhà báo kia im lặng mà còn cho thấy sự mưu trí và bản lĩnh của bà trong những cuộc đàm phán căng thẳng.
Cuộc đàm phán tại Paris kéo dài từ năm 1968 đến 1973 và được coi là một trong những cuộc đàm phán ngoại giao khó khăn nhất trong lịch sử. Bà Nguyễn Thị Bình, với tư cách là đại diện của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, đã có những cuộc đối đầu quyết liệt với các phái đoàn Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Tuy nhiên, với sự kiên trì, thông minh và tinh thần bất khuất, bà đã cùng các đồng đội của mình mang lại một chiến thắng ngoại giao vĩ đại cho dân tộc Việt Nam.
Trong suốt quá trình đàm phán, bà đã phải đối diện với hàng loạt câu hỏi khó từ giới truyền thông và các nhà ngoại giao phương Tây. Một lần, một nhà báo hỏi bà về sự hiện diện của quân đội miền Bắc tại miền Nam, bà đã trả lời: “Dân tộc Việt Nam là một, người Việt Nam ở Bắc cũng như ở Nam đều có nghĩa vụ chiến đấu chống xâm lược.” Khi nhà báo hỏi về vùng giải phóng của Việt Nam, bà khẳng định rằng mọi nơi mà Mỹ ném bom và bắn phá chính là vùng giải phóng của Việt Nam. Những câu trả lời dứt khoát và kiên định của bà đã khiến đối phương phải thán phục và hiểu rõ hơn về cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc Việt Nam.

Bà Nguyễn Thị Bình trong thời khắc lịch sử ký kết vào Hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình cho Việt Nam.
Ký kết Hiệp định Paris và những kỷ niệm sâu sắc
Ngày 27 tháng 1 năm 1973, Hiệp định Paris chính thức được ký kết, chấm dứt cuộc chiến tranh kéo dài và mở ra một kỷ nguyên hòa bình cho Việt Nam. Bà Nguyễn Thị Bình đã đặt bút ký vào bản Hiệp định này, và mỗi khi nhắc lại sự kiện trọng đại đó, bà vẫn không khỏi xúc động. Bà chia sẻ rằng, khi ký vào Hiệp định Paris, bà nhớ đến những đồng bào và chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến tranh gian khổ. Bà xúc động kể lại: “Khi đặt bút ký vào bản Hiệp định chiến thắng, nghĩ đến những đồng bào, đồng chí ngã xuống, mắt tôi bỗng nhòe ướt.”
Hiệp định Paris không chỉ là một chiến thắng trong đàm phán mà còn là một minh chứng cho lòng kiên trì, bản lĩnh và sự đoàn kết của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập. Chính bản Hiệp định này đã mở đường cho việc chấm dứt chiến tranh và xây dựng lại đất nước sau bao nhiêu năm tháng chiến đấu đẫm máu. Đây là một thắng lợi ngoại giao vĩ đại và mãi mãi gắn liền với tên tuổi của bà Nguyễn Thị Bình.

Người ta gọi bà là “người phụ nữ khiêu vũ giữa bầy sói”
Ảnh hưởng và tầm ảnh hưởng của bà Nguyễn Thị Bình
Không chỉ là một trong những người ký kết Hiệp định Paris, bà Nguyễn Thị Bình còn là một tấm gương sáng về tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường và khả năng ngoại giao xuất sắc. Sự nghiệp của bà đã để lại những bài học quý báu cho các thế hệ sau, đặc biệt là trong bối cảnh đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ trong thời kỳ hội nhập và phát triển. Bà cũng là một biểu tượng mạnh mẽ của phụ nữ Việt Nam trong đấu tranh ngoại giao và chiến tranh. Những hoạt động của bà đã góp phần nâng cao hình ảnh của phụ nữ Việt Nam trên trường quốc tế, khẳng định rằng phụ nữ cũng có thể đóng vai trò quan trọng trong những công việc đòi hỏi trí tuệ, nghị lực và sự kiên cường.
Những dấu ấn của bà Nguyễn Thị Bình không chỉ là niềm tự hào của dân tộc mà còn là nguồn cảm hứng mạnh mẽ cho các thế hệ phụ nữ Việt Nam trong mọi thời đại. Bà là hình mẫu lý tưởng về phẩm chất đạo đức, sự kiên định với lý tưởng cách mạng và tinh thần vững vàng, vượt qua mọi thử thách trong suốt sự nghiệp đấu tranh và ngoại giao. Đặc biệt đối với phụ nữ trong Khoa Tin học - Ngoại ngữ, bà là tấm gương sáng về sự kiên trì, nỗ lực không ngừng để hoàn thành nhiệm vụ, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và phát triển quân đội vững mạnh.
Trong thời đại chuyển đổi số, khi đất nước đang phát triển mạnh mẽ trong kỷ nguyên công nghệ, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy và huấn luyện quân đội trở thành yếu tố then chốt. Mỗi nữ cán bộ, giảng viên trong Khoa Tin học - Ngoại ngữ cần không ngừng học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn, đổi mới phương pháp giảng dạy để nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu phát triển của quân đội trong thời kỳ số hóa. Học tập theo gương bà Nguyễn Thị Bình, chúng ta phải kiên định với lý tưởng cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời luôn nỗ lực phát triển bản thân, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng lực lượng vũ trang hùng mạnh.
Di sản mà bà Nguyễn Thị Bình để lại là kho tàng vô giá về trí tuệ, đạo đức và sự tận tâm với công việc. Những bài học về sự kiên cường, vượt qua khó khăn và thử thách, cùng với phương châm của Bác Hồ: “Dù khó khăn đến đâu, cũng phải kiên định mục tiêu, không bao giờ chùn bước,” sẽ là kim chỉ nam giúp mỗi nữ cán bộ, giảng viên trong Khoa tiếp tục vươn lên. Bà Nguyễn Thị Bình đã luôn học tập và áp dụng phương châm này trong suốt sự nghiệp của mình, trở thành tấm gương sáng cho các thế hệ tiếp theo. Chúng ta cần tiếp tục phấn đấu không chỉ trong công tác giảng dạy mà còn trong việc hình thành thế hệ trẻ tài năng, có phẩm chất tốt đẹp, sống có lý tưởng cách mạng, sẵn sàng đóng góp cho sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước.

Bà Nguyễn Thị Bình trong một lần thăm và làm việc tại trường Phạm Phú Thứ, Gò Nổi
Cuộc đời và sự nghiệp của bà Nguyễn Thị Bình sẽ mãi là nguồn cảm hứng vô giá cho các thế hệ mai sau, không chỉ khơi dậy niềm tự hào dân tộc mà còn là bài học về tinh thần đoàn kết, kiên cường và yêu nước. Đặc biệt, đối với phụ nữ nói chung và các nữ cán bộ, giảng viên trong Khoa Tin học - Ngoại ngữ Học viện Lục quân nói riêng, bà là tấm gương sáng ngời về sự kiên định với lý tưởng cách mạng, sự nỗ lực không ngừng để hoàn thành nhiệm vụ, và tinh thần vượt qua mọi thử thách để đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Gò Nổi tự hào là quê hương của Bà Nguyễn Thị Bình, cầu chúc bà luôn mạnh khỏe và mãi là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều thế hệ học tập và noi theo.
KTHNN. Trịnh Thị Như Quỳnh, Theo HVLQ
TÀI LIỆU THAM KHẢO VIẾT BÀI
1. Nguyễn Thị Bình, Phạm Văn Đính (2019). Nhớ lại những ngày tháng đàm phán Hiệp định Paris. Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin.2. Nguyễn Thị Bình (2020). Từ chiến tranh đến hòa bình: Hồi ký của một người phụ nữ làm ngoại giao. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
3. Nguyễn Cơ Thạch (1999). Những ngày Paris: Cuộc đàm phán lịch sử. Nhà xuất bản Sự Thật.
4. Đàm Phán Hiệp định Paris (1973). Các văn bản và thảo luận chính trị của Hiệp định Paris. Nhà xuất bản Lịch sử.
5. Ngoại giao Việt Nam trong chiến tranh chống Mỹ (2012). Đấu tranh ngoại giao và chiến lược chiến tranh. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
6. Sally Haslanger (2018). Phụ nữ và quyền lực trong thế kỷ 20: Những hình mẫu trong đấu tranh chính trị. Nhà xuất bản Đại học Harvard.